Nhận xét Tú Mỡ

Về tác giả

Theo Nguyễn Hoàng Khung, thì Tú Mỡ là người có một "tâm hồn đôn hậu, lạc quan và chan chứa tình đời"[2].

Trong một bài viết, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, còn cho biết thêm rằng: "mặc dù sống trong một thế kỷ đầy biến động, song cuộc đời Tú Mỡ lại chỉ hiện ra với những đường nét đơn giản...Theo bạn bè và những người thân trong gia đình kể lại, thì cách sống của ông phải gọi là thanh bạch. Lúc nhỏ, đi học, lớn lên, đi làm nuôi gia đình. Lớn lên là một công chức mẫn cán...Đến khi được chuyển hẳn sang sáng tác, thì ông lại cặm cụi lo đọc lo viết. Mặc dù quen biết nhiều, nhưng theo Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ là người "thuốc lá không hút, chè tàu không nghiện, tổ tôm không biết đánh". Giữa đám người cầm bút đông đảo "đa ngôn đa sự", ông có vẻ như sống riêng ra, lấy sự siêng năng cần mẫn làm trọng, lấy cảnh gia đình yên ấm làm vui, không phiêu lưu không mơ tưởng hão huyền, tin rằng thiên đường chỉ có ở trên trần thế, được sống khỏe mạnh, lại có công việc ưa thích đã là tiên cảnh lắm rồi, còn như có gì khó chịu trước sự đời, thì đã có nụ cười hóa giải giúp!"[7]

Về tác phẩm

Đề Tựa cho tập thơ Giòng nước ngựợc, nhà văn Khái Hưng đã liệt tập thơ này vào dòng văn chương bình dân. Còn Lê Thanh, ngay năm 1942, đã xác định rằng: "Tú Mỡ là một nhà thơ khôi hài và trào phúng"[8].

Cũng trong năm 1942, giới thiệu Tú Mỡ trong bộ sách Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan viết:

"Thơ mới ngày nay đã xâm chiếm gần đến đất đai của thi ca Việt Nam...làm cho những tay kiện tướng còn lại của trường thơ cũ như Trần Tuấn Khải, Tương Phố đều phải xếp bút. Tuy vậy, vẫn còn một dòng thơ cũ chảy róc rách, nước thật ngọt ngào, vì nó là thứ nước của nguồn xưa mà người Việt nam quen uống từ lâu. Tôi muốn nói đến hai tập "Dòng nước ngược" của Tú Mỡ. Hai tập thơ này đều có cái giọng bình dân rất trong sáng. Chúng ta vốn ưa thích xưa nay: giọng cợt đùa lẳng lơ của Hồ Xuân Hương, giọng nhạo đời của Trần Tế Xương, giọng thù ứng ý nhị của Nguyễn Khắc Hiếu, giọng giao duyên tình tứ của Trần Tuấn Khải; từng ấy giọng thơ, ngày nay ta thấy cả trong hai tập thơ trào trúng của Tú Mỡ...Cũng như Tản Đà và Trần Tuấn Khải, Tú Mỡ viết rất nhiều lối, nào phong dao, nào thù ứng, nào hát xẩm, nào văn tế, nào chầu văn...mà lối nào của ông cũng đều hay cả...Thơ Tú Mỡ thật là thơ có tính các Việt Nam đặc biệt"[9].

Năm 1965, đề cập đến Tú Mỡ, trong bộ Việt Nam văn học giản ước tân biên (Quyển 3) của GS. Phạm Thế Ngũ, có đoạn viết:

"Trong làng thơ Việt Nam sau 1932, có một cây bút không mới chút nào...vậy mà ngự trị thường xuyên trên báo 'Phong Hóa, Ngày Nay' và được độc giả thời ấy rất ham coi, đó là cây bút trào phúng Tú Mỡ"...

Sau khi phân tích và trích dẫn thơ Tú Mỡ, tác giả kết luận:

"Thơ ông chịu ảnh hưởng rõ rệt thơ cũ…từ cảm hứng đến thể cách. Ông sáng tác đủ loại: thơ Đường, phú, văn tế, lục bát, hát nói, hát xẩm, chầu văn... Nói rằng ông đã tiến hơn tiền bối thì quá đáng, song ở ông cũng đã có một lời thơ hoạt bát, cách gieo vần tài tình, giọng dí dỏm tự nhiên và biết mượn tình cười để chinh phục người ta... Sau Tú Mỡ (và đồng thời ông nữa) trên khắp các báo, người ta làm thơ trào phúng nhan nhãn, nhưng dễ chừng không ai bắt chước được tác giả "Giòng nước ngược"...[10]

Năm 2004, đúc kết lại sự nghiệp văn chương của Tú Mỡ, Nguyễn Hoành Khung trong Tự điển Văn học (bộ mới) đã có những đánh giá đáng chú ý. Lược lại như sau:

"Những sáng tác của Tú Mỡ trước 1945, đều được tập hợp trong hai tập "Giòng nước ngược" do Tự Lực văn đoàn xuất bản. Đây là một thi phẩm có giá trị, là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Chúng bao gồm nhiềiu tiểu phẩm châm biếm bằng văn vần, mang tính chất thời sự rõ rệt, thể hiện thái độ phê phán của nhà thơ đối với chế độ nửa thực dân và nửa phong kiến khi đó...Kế tục truyền thống của các nhà thơ trào phúng tiền bối: Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Tuấn Khải...; ngòi bút của Tú Mỡ đã trở nên sắc sảo, tạo tiếng cười sảng khoái, táo bạo...được độc giả rất hoan nghênh. Và chính nhờ "Giòng nước ngược" mà ông nổi tiếng."Từ năm 1947, Tú Mỡ chuyên làm thơ trào phúng để đánh thực dân Pháp một cách sâu cay. Ngoài điều đó ra, thơ trong "Nụ cười kháng chiến" còn có cái sảng khoái, đầy tinh thần lạc quan của một dân tộc đang chiến đấu và tin rằng sẽ chiến thắng... Bên cạnh thơ, ông còn sáng tác diễn ca, , chèo, dân ca...để ca ngợi, tuyên truyền để động viên cổ vũ nhân dân"."Từ năm 1954, ngòi bút trào phúng của Tú Mỡ lại tiếp tục nhằm vào một đối phương mới, đó là Mỹ và chính quyền thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam". Những năm cuối đời, Tú Mỡ làm nhiều thơ vui về đàn cháu nhỏ, về tình cảm gia đình[11] về cuộc sống bản thân. Chính những chùm thơ trữ tình hài hước này càng làm nổi rõ tâm hồn đôn hậu, lạc quan và chan chứa tình đời của nhà thơ trào phúng lão thành Tú Mỡ...[2].